Lễ hội Việt Nam
Mỗi dân tộc Tây Nguyên có tiếng nói khác nhau, phong tục khác nhau nhưng cùng sống bằng nghề nương rẫy nên họ có một số phong tục giống nhau. Một trong những tập tục giống nhau của người Tây Nguyên là làm lễ cầu mùa.
|
Trong vòng đời của người Ê Đê, từ cậu bé trở thành chàng trai, thành người đàn ông biết gánh vác mọi công việc của buôn làng, nhất định phải thực hiện một lễ thức trọng đại, đó là Lễ khôn lớn hay Lễ trưởng thành, tiếng Ê Đê gọi là lễ MPú.
|
Nếu như lễ hội đâm trâu là một nét văn hóa đặc trưng mang tính phổ biến của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, thì đối với người Chăm nghi lễ chém trâu tế thần rất hiếm khi diễn ra. Có thể nói lễ chém trâu được coi là một phong tục độc đáo mang tính riêng biệt của cộng đồng người Chăm Lạc Tánh.
|
Đào Xá là miền đất cổ, có nền văn hoá lâu đời cách đây khoảng 1.800 năm thuộc vùng đất Khuất Động Liêu, thuở khai sơ có tên là Làng Dâu, Làng Da, sau này đổi tên thành làng Đào Xá. Theo đó, đình và đền Đào Xá cũng đã có từ rất lâu đời.
|
Cứ 7 - 10 năm một lần, đồng bào Vân Kiều, Pa Cô ở miền tây Quảng Trị lại cùng nhau góp công, góp của để tổ chức lễ cúng.
|
Người Hà Nhì có rất nhiều ngày cúng trong năm, nhưng tưng bừng và nhộn nhịp nhất là ngày Gạ Ma Thú (cấm bản). |
Hàng năm, cứ đến ngày rằm tháng hai tính theo Phật lịch, dân làng An Trạch lại tổ chức lễ hội cầu an ở miếu này và gọi đó là hội Thác Côn. Trong tiếng Khơ Me, Thác Côn có nghĩa Đạt Cồng, gợi lại sự tích về tiếng cồng chiêng vang lên từ đất. Hội Thác Côn có lệ cúng những chiếc bình bông làm bằng trái dừa. Nét độc đáo của vật cúng khiến người ta còn gọi lễ này bằng cái tên - Lễ Cúng dừa. |
Tục lệ kết “Chạ” giữa các làng, xóm hay các nhóm người có cùng một lợi ích, một sở thích hoặc một niềm đam mê trong cuộc sống được xem là một trong những nét đẹp văn hóa truyền thống của vùng Kinh Bắc – Bắc Ninh. Lễ hội đón “Chạ” Khả Lễ- Bái Uyên là một điển hình như thế.
|